Điều 1. Vị trí, chức năng
1. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh Sơn La, thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về: Nông
nghiệp; lâm nghiệp; thuỷ sản; thuỷ lợi; phát triển nông thôn; phòng, chống
thiên tai; chất lượng an toàn thực phẩm đối với nông sản, lâm sản, thuỷ sản; về
các dịch vụ công thuộc ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn theo quy định của
pháp luật và theo phân công hoặc uỷ quyền của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh.
2. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản
lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của UBND tỉnh; đồng thời chịu
sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn.
Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
Thực hiện theo quy định tại Điều 2, Thông tư liên tịch số
14/2015/TTLT-BNNPTNT-BNV ngày 25 tháng 3 năm 2015 của liên bộ: Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Nội vụ về việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và phát triển nông thôn
thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện.
Điều
3. Cơ cấu tổ chức của Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn
1. Lãnh đạo Sở gồm: Giám đốc và không quá 03 Phó
Giám đốc
a) Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là Ủy viên UBND tỉnh, là người đứng đầu Sở chịu trách nhiệm
trước UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh và trước pháp luật
về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở và các công việc được UBND, Chủ
tịch UBND tỉnh phân công hoặc ủy quyền; chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước HĐND tỉnh, UBND tỉnh
và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khi
có yêu cầu; cung cấp tài liệu cần thiết theo yêu cầu của HĐND tỉnh;
trả lời kiến nghị của cử tri, chất vấn của Đại biểu HĐND tỉnh
về những vấn đề trong phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý; phối hợp với Giám đốc Sở khác, người đứng đầu các tổ chức chính trị
- xã hội cấp tỉnh, các cơ quan có liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ của
Sở;
b) Phó
Giám đốc Sở là người giúp Giám đốc Sở phụ trách một số mặt công tác, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở
và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Khi Giám đốc Sở vắng mặt, một
Phó Giám đốc Sở được Giám đốc Sở ủy nhiệm điều hành các hoạt động
của Sở;
2.
Cơ cấu tổ chức của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn gồm:
a)
Các tổ chức tham mưu tổng hợp và chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở
-
Văn phòng;
-
Thanh tra;
-
Phòng Tổ chức cán bộ;
-
Phòng Kế hoạch - Tài chính;
-
Phòng Phát triển nông thôn;
-
Phòng Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản.
b)
Chi cục trực thuộc Sở
-
Chi cục Kiểm lâm;
-
Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản (trên
cơ sở tổ chức lại Chi cục Chăn nuôi và
Thú y, Chi cục Thủy Sản);
-
Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật;
-
Chi cục Thủy lợi.
c)
Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Sở
-
Trung tâm Khuyến nông;
-
Trung tâm Giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản;
-
Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn.
d)
Văn phòng Điều phối Chương trình xây dựng nông thôn mới (giúp việc cho Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của tỉnh).
3.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định cụ thể chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các cơ quan, đơn vị thuộc, trực thuộc Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn theo quy định
của pháp luật. Căn cứ các quy định của pháp luật, Giám đốc Sở ban hành
Quy chế làm việc của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và chỉ đạo, kiểm
tra việc tổ chức thực hiện.
KHÁI QUÁT SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ngay sau khi giành được
độc lập, Đảng và nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã rất
quan tâm đến lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản và thuý lợi. Cùng với
sự phát triển của sự nghiệp cách mạng cả nước, ngành luôn cỏ sự thay đổi về tên
gọi và tổ chức để đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ: Từ Bộ Canh nông (năm 1945);
Nha Thuỷ lợi (năm 1953); Bộ Nông Lâm; Bộ Thuý lợi - Điện lực (năm 1955); Bộ
Nông nghiệp, Bộ Nông trường, Bộ Thuỷ lợi Điện lực; Tổng cục Lâm nghiệp; Tổng
cục Thuỷ sản, Cục Lương thực (năm 1960); Bộ Thuỷ lợi; Tổng cục Lương thực (năm
1962); Uỷ Ban Nông nghiệp Trung ương, Bộ Lương thực thực phẩm (năm 1971); Bộ
Lâm nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lương thực, Tổng cục Cao su, Bộ Nông
nghiệp và CNTP. Sau ngày giải phỏng miền Nam, thống nhất đất nước; Bộ Nông
nghiệp và PTNT được thành lập từ 01/11/1995 fren cơ sờ hợp nhất Bộ Nông nghiệp và CNTP, Bộ Lâm nghiệp,
Bộ Thủy lợi (năm 1995); Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện nay được
thành lập trên cơ sờ hợp nhất Bộ Nông nghiệp và PTNT (cũ) với Bộ Thủy sản (năm
2007).
Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Quốc hội và Chính phủ, 70 năm qua, ngành Nông nghiệp và PTNT đã vượt qua
nhiều gian nan thử thách và có những bước trường thành về nhiều mặt, góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
Trong các cuộc kháng
chiến trường kỳ của dân tộc chống giặc ngoại xâm (1945-1975), nông nghiệp, nông
dân, và nông thôn đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh của “hậu phương lớn đổi với
tiền tuyến lớn”. Thực hiện lời dạy của Bác: “Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc
cày là vũ khí, nhà nông là chiến sỹ, hậu phương thi đua với tiền phương” cùng
với những phong trào tiêu biểu như “hũ gạo nuôi quân”; “thóc không thiểu một
cân, quân không thiều một người”...đã góp phàn vô cùng quan trọng vào thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lại hoà bình,
thống nhất đất nước.
Trong những nãm tháng khỏ khăn của thời kỳ khôi phục
đất nước sau chiến tranh (1975- 1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp,
nông dân và nông thôn đã phấn đấu vượt qua khó khăn tiên phong trong công cuộc
Đổi mới của đất nước sau này. Trong những năm tháng đó, nông nghiệp đã vượt lên
những khó khăn, trì trệ kéo dài trong sản xuất, tìm hướng đi mới và đã đạt được
bước tăng trưởng vượt bậc, đặc biệt là về sản xuất lương thực, góp phần quan
trọng ổn định đời sống, kinh tế cùa cả nước..
Thực hiện đường lối đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nông nghiệp và nông thôn liên tục giành
được những thành tựu to lớn và toàn diện, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm,
thuỷ sản tăng lên hàng năm, đưa nước ta thành một trong những quốc gia xuất
khẩu nông, lâm, thuỷ sản hàng đầu trên thế giới. Các lĩnh vực sản xuất trồng
trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sàn đều có bước phát triển rất
mạnh mẽ; năng suất lúa liên tục tăng qua các năm. Nhiều vùng sản xuất hàng hoá
tập trung đã được hình thành và phát triển; tạo ra khối lượng hàng hoá lớn làm
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu như gạo, cà phê, cao su, chè,
điều, hồ tiêu, thủy sản, các loại lâm sản. Nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy sản
có sức cạnh tranh cao, chiếm được vị thế quan trọng trên thị trường thế giới.
Hàng nghìn công trình thuý lợi được xây dựng, trong đó có nhiều công trình quy
mô lớn là yếu tố vô cùng quan trọng tạo ra sự phát triển của sản xuất nông lâm
thuỷ sản; nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và xây dựng nông
thôn. Hệ thống thuỷ lợi với hàng ngàn hồ đập, trạm bơm, hàng chục ngàn kin kênh
mương, đê kè được hình thành là một thành tim hết sức to lớn cùa đất nước ta mà
nhiều nước đang cố gắng làm theo.
Nhờ sản xuất phát triển, đời sống người dân nông thôn
liên tục được cải thiện, từ chỗ có hàng triệu người chết đói năm 1945; cảnh
thiếu đói kéo dài mấy chục năm đến chỗ đủ ăn và hiện nay người nông dân đang
chuyển từ bữa ăn no đến bữa ăn ngon, từ chỗ chủ yếu lo về đời sống vật chất thì
nay đang nâng cao và làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần. Hầu hết các
vùng nông thôn đã và đang có bước phát triển rất nhanh, nhà xây nhà ngói đang
cơ bản thay thế những mái tranh nghèo năm xưa. Sự phát triển của nông nghiệp và
nông thôn đã góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc xoá đói giảm
nghèo, nâng cao đời sống của nông dân, làm cơ sờ ổn định và phát triển kinh tế
- xã hội trong nước. Đồng thời, những thành tựu này đã góp phần nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế, giải quyết vấn đề an ninh lương thực, xoá đói
giảm nghèo,xuất khẩu nông sản với một số mặt hàng có vị thế cao trên thị trường
quốc tế. Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn, hệ thống tổ chức ngành
ngày càng hoàn thiện, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngày càng được nâng
cao về năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị và tinh thần phục vụ. Đã hình
thành một cơ chế quản lý nhà nước tương đối thông suốt từ Trung ương đến địa
phương. Các tổ chức về thú y, bảo vệ thực vật, kiểm lâm, quản lý thuỷ lợi, các
viện nghiên cứu, các trường đã không ngừng lớn mạnh với đội ngũ đông đảo cán bộ
được đào tạo có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, trang thiết bị hiện đại dần
tiếp cận với trình độ quốc tế.
Tiếp tục phát huy truyền
thống của ngành, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển chung của cả
nước, ngành Nông nghiệp và PTNT đã đặt ra mục tiêu phấn đấu đạt được sự tăng
trưởng bền vững, chất lượng, cải thiện cơ bản điều kiện sống của dân cư nông
thôn nhất là người nghèo, bảo vệ và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và môi trường. Phấn đầu đạt tốc độ tăng trưởng ngành từ 3,5 đến 3,8%; kim
ngạch xuất khẩu đạt 21 tỷ USD, tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%; tỷ lệ hộ nghèo nông
thôn còn 7%, 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và 95% hộ gia đình nông thôn
được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Phát huy truyền thống của
ngành, tiếp tục đổi mới thể chế tạo điều kiện thuận lợi để nông dân, doanh nhân
các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế ngáy càng sâu rộng; đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật làm
cơ sỡ để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của
nông, lâm, thuỷ sản; đẩy mạnh phát triển thuỷ lợi và cơ sở hạ tầng nông thôn
làm nền tảng phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời tạo điều kiện phát
triển bền vững các ngành xã hội khác, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu
và nước biển dâng, đào tạo nhân lực, nâng cao hàm lượng tri thức trong tất cả
hoạt động của ngành để tiếp tục thúc đẩy quá hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện phải nhanh chóng rút bớt lao động ra
khỏi lĩnh vực nông nghiệp; cải cách bộ máy hành chính để ngày càng hoạt động
chuyên nghiệp, hiệu quả hơn, tăng cường chống tham nhũng, lãng phí.
Nhìn lại 70 năm xây dựng
và trường thành, có thể khẳng định Ngành Nông nghiệp và PTNT đã hoàn thành xuất
sắc sứ mệnh mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân giao phó./.
Giai đoạn 1955-1959
Cấp Khu: Thành lập Sở
Nông lâm nghiệp Khu Tự trị Thái Mèo
Cấp Châu: Thành lập các
phòng Nông Lâm nghiệp.
Nhiệm vụ: Vận động nông dân làm vụ
chiêm, hạn chế làm lúa nương và ngô trên đất dốc. Điều hòa sức kéo, cải tiến
công cụ, làm mương dẫn nước, khai hoang ruộng nước, cung cấp giống mới có năng
suất cho nông dân; Tiến hành cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, phát triển
sản xuất và kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ...
Kết quà: Có 90% nông dân tích cực
tham gia học tập, phát triển từ tổ đổi công hình thành hợp tác xã nông nghiệp;
69% số hộ nông dân ở vùng thấp và 22% số hộ nông dân ở vùng cao vào hợp tác xã
nông nghiệp.
Giai đoạn 1959-1971
Năm 1962, ủy ban hành chính tình Sơn La được thành
lập các cơ quan chuyên môn trực thuộc, trong đó có các Ty: Nông nghiệp - Thủy
lợi, Lâm nghiệp...
Nhiệm vụ chỉnh cùa ngành: Vận động nông dân phá bỏ
tập quán cấy lúa một vụ; Cải tiến nông cụ; ứng dụng cậc tiến bộ mới vào sản
xuất, khai hoang thêm ruộng nước; Cung cấp giống cây, con mới cho nông dân;
Thành lập các trường, trạm, trại...
Kết quà: Vận động nông dân làm vụ chiêm, hạn chế làm lúa nương
và ngô trên đất dốc, làm mương dẫn nước, khai hoang ruộng nước, cung cấp giống
mới có năng suất cho nông dân phát triển sản xuất và kết hợp hoàn thành cải
cách dân chủ., phòng chống thiên tai, bảo vệ mùa màng; Phát triển nghề trồng
bông, dệt vải, trồng lanh của đồng bào Mông; Thành lập trường trung sơ cấp nông lâm khu; thành lập các trại
thực nghiệm giống cây trồng, vật nuôi; Hợp tác hóa nông nghiệp, trên 90% nông
dân tích cực tham gia học tập (từ tổ đổi công lên hợp tác xã nông nghiệp).; Đón
nhận cán bộ ngành và đồng bào Miền xuôi lèn xây dựng kinh tế Miền núi; thành
lập Nông trường Mộc Châu (1959)...
Giai
đoạn 1971 - 1975
Thành lập ủy ban Nông nghiệp trên cơ sở sáp nhập Ty
Nông nghiệp, Ban Phân vùng quy hoạch, Ban Định canh định cư, Phòng Thuỷ nông;
Các Ty Lâm nghiệp, Thuỷ lợi, Lương thực là thành viên Uỷ ban.
Nhiệm
vụ: Cài tiến quản lý hợp tác hóa,
cải tiến kỹ thuật; Điều tra, quy hoạch, phân vùng kinh tế...
Ket
quả: Xác định vùng kinh tế cùa
tỉnh: Vùng lâm nghiệp đặc sản kết hợp nông nghiệp; Vùng nông nghiệp kết hợp lâm
nghiệp; Vùng lâm nghiệp kết hợp nông nghiệp; Vùng kinh tế chè, bò sữa Mộc Châu;
Vùng kinh tế ngô, chè, bò thịt Nà Sản; Vùng kinh tế cánh kiến đỏ Sông Mã; Vùng
tre, nứa dọc Sông Đà; Trên phạm vi toàn tỉnh đã cơ bản hoàn thành chuyển từ hợp
tác xã bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao (1965 93,2%, năm 1968 96%), có Va số hợp tác xã quy mô 50-100 hộ; gần 200 hợp tác xã tổ
chức chăn nuôi tập thể, trồng cây công nghiệp, cây thực phẩm hàng hóa, nhiều
hợp tác xã đạt 5 tấn thóc/1 ha; Đưa nhiều giống mới có năng suất cao vào sản
xuất như lúa xuân NN8, Chân trâu lùn... các giống ngô VM1, Lail, Lai 2.; Sắn
cần câu, sắn Thái lan; các giống cá Trám cỏ, Chép Hung, Rô phi, Mè hoa...; Tăng
đàn gia súc, gia cầm, phát triển nghề nuôi ong, nghề cá...; Thí điểm công tác
giao đất, giao rừng, khai thác tài nguyên; Phát động toàn dân làm thủy lợi phục
vụ sản xuất, làm phai tạm; phai gỗ, đá; hồ đập nhỏ; phòng chống thiên tai..
.;Vận động nông dân định canh, định cư, thực hiện 3 khoán, 3 quản; củng cố và
thành lập mới các hợp tác xã nông nghiệp.. .- Giúp đỡ tỉnh Hủa Phăn (Nước
CHDCND Lao) về phát triển sản xuất nòng nghiệp.
Giai đoạn
1976-1986
Nhiệm vụ: Tập trung xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật, củng cố và tăng cường các đơn vị kinh tế quốc doanh, chú
trọng cải tiến công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp...
Kết quà: Sản xuất lương thực
phát triển mạnh, giảm bớt việc huy động và điều hòa lương thực từ Trung ương
hơn 01 vạn tấn/năm.; Nhiều đơn vị kinh tế quốc doanh, hợp tác xã có trang thiết
bị ché biến ngô, sắn.; Mở rộng vùng chè, mía tập trung; cung cấp giống với 2
phương pháp ươm quả và dâm cành đối với cây chè; xây dựng cây chủ cánh kiến đỏ
Sông Mã, phát triển vùng nguyên liệu giấy Sông Đà; phát triển cây bông, cây
lạc, đậu tương; Phát triển chăn nuôi ở cả 3 khu vực (quốc doanh, tập thể và gia
đình); đưa tổng đàn gia súc tăng bình quân 4-5%/năm; Trồng rừng tập trung,
khoanh nuôi rừng kinh tế, giao đất giao rừng, chế biến nông, lâm sản; ừồng cây
dược liệu; chống sương muối bảo vệ cánh kiến đỏ; Phát triển thủy lợi, làm phai
rọ thép, hồ chứa, đập dâng nước, kiên cố hóa kênh mương, thủy nông nội đồng;
Củng cố các đơn vị quốc doanh từng bước đi vào hạch toán kinh doanh, trang bị phương
tiện kỹ thuật, thiết bị chế biến...; Củng cổ hợp tác xã nông nghiệp, tổ chức
lại sản xuất, xác định phương hướng sản xuất, phân công lại lao động theo hướng
chuyên môn hóa, sử dụng hợp lý đất đai, thực hiện khoán sản phẩm, phát triển
ngành nghề...; Phục vụ công tác di dân lòng hồ Thủy điện Hòa Bình thuộc phạm vi
Sơn La có 116 bản, 5.000 hộ, 3,5 vạn nhân khẩu phải di chuyển đến nơi ở mới;
tăng cường công tác cấp huyện trong chỉ đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn,
nông dân.
Giai đoạn 1986-2000
Giai đoạn phát triển sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển từ kinh tế từ tự cung, tự cấp sang
sản xuất hàng hóa, từ nền kinh tế khép kín sang kinh tế mở; từ nền kinh tế 2
thành phần sang nền kinh tế nhiều thành phần. Tạo dựng những vùng cây công
nghiệp, vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với các cơ sở chế biến; ứng dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ vào sản xuất đến tận hộ
nông dân; hợp tác quốc tế; có cơ chế quản lý và chính sách phù hợp.
Kết quà. Bằng việc ứng dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thâm canh, đưa giống lúa lai, lúa thuần, ngô lai,
giảm dần diện tích lúa nưcmg đã nâng cao năng suất và sàn lượng lương thực; ủng
dụng các tiến bộ trong chăn nuôi, đặc biệt là giống, thức ăn, thuốc thú y và
đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh có hiệu quả đã từng bước nâng cao quy
mô, cơ cấu giống như bò lai Sind, lợn hướng nạc, đàn gia cầm siêu trứng... ; mở
rộng, tập trung, đặc biệt là cây chè, cà phê, dâu tằm...
Phát triển vùng cây ăn
quả, đặc biệt là nhãn, vải; cải tạo vườn tạp...; Công nghiệp chế biến được đầu
tư, xây dựng các cơ sở chế biến cà phê, ươm tơ, nhà máy đường, nhà máy chế biến
thức ăn gia súc, nhà máy giấy crap, cơ sở chế biến ván răm... có quy mô và công
nghệ phù hơp; Bảo vệ và phát triển rửng được chú họng, thực hiện chủ trương
giao đất khoán rừng, dãn bản, tách hộ, làm vườn đồi rừng và kinh tế trang trại,
chuyển dần từ lâm nghiệp truyền thống sang lâm nghiệp xã hội; Thủy lợi, phòng
chống lũ bão, giảm nhẹ thiên tai với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm, nhân dân làm Nhà nước hỗ trợ” đã xây dựng hàng chục công trinh đập dâng
bằng bê tông cốt thép; kiên cố hóa kênh mương, xây dựng trên 300 công trình cấp
nước sinh hoạt tập trung, bể chứa nước; thực hiện tưới ẩm cho cây trồng cạn;
hàng năm xây dựng phương án chủ động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai
cho từng vùng, tổ chức diễn tập, thực hiện 4 tại chỗ, kịp thời khắc phục hậu
quả thiên tai, nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống nhân dân. Thực hiện
chính sách định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc, hỗ trợ sản xuất cây lúa
nước, trồng cây công nghiệp, xây dựng vườn hộ gia đình, phát triển đàn trâu,
bò; khoanh nuôi bảo vệ rừng; xây dựng các công trinh thủy lợi, bể chứa nước
sinh hoạt; xây dựng đường giao thông nông thôn; xây dựng trường học, trạm xá;
trạm thu phát lại truyền hình... Thực hiện chương trình 135 của Trung ương trên
địa bàn tinh, xây dựng dự án quy hoạch các xã đặc biệt khó khăn và xã có công.
Xây dựng các công trình thủy lợi, công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, xây
dựng tuyến đường giao thông liên bản; trường học phổ thông; trạm xã; xây dựng
cầu treo; chợ; trạm thu phát sóng phát thanh truyền hình... Thực hiện có hiệu quà
chương trình 925 của tinh đã xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, bể chứa nước, giếng đào, nhà
tắm, các công trình thủy lợi, cầu cống... Chuyển đổi các hợp tác xã nông nghiệp
quy mô toàn xã được tách thành quy mô bản phù họp với điều kiện dân cư; xác
định hộ là đơn vị kinh tế tự chủ; giao khoán ruộng đất lâu dài; chuyển nhượng
trâu, bò, công cụ cho hộ sản xuất; hóa giá đồng chè, đồi cây, đàn gia súc, đầu
tư hỗ trợ sản xuất theo hợp đồng; bảo hiểm giá thu mua sản phẩm cho hộ xã
viên.. .Tổ chức, sắp xếp lại các đơn vị quốc doanh nông nghiệp tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh tế, kinh doanh
xã hội chủ nghĩa và cạnh hanh lành mạnh. Các doanh nghiệp đã thể hiện được vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, làm tốt nhiệm vụ hướng dẫn,
chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, tổ chức dịch vụ đầu vào và thu mua sản phẩm
đàu ra cho nông dân góp phần chuyển dịch nền kinh tế sang sản xuất hàng
hóa. - Thành lập hệ thống khuyến nông nhà nước và khuyến nông doanh nghiệp với
cơ cấu hợp lý đi vào hoạt động có hiệu quả như chuyển giao công nghệ sản xuất
ngô lai, lúa lai, trồng ngô vụ đông, đậu đỗ vụ thu, đậu tương xuống chân ruộng
1 vụ, chiết ghép cây ăn quả, cải tạo đàn bò, nhân giống ong mới, nhân giống mía
mới, dê Bách thảo... Có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất phù họp với
điều kiện thực tế như phát triển sản xuất nông lâm nghiệp theo hướng sàn xuất
hàng hóa, phát triển chè phát triển trang trại, trồng rừng sản xuất, trợ cước,
trợ giá phân bón; ổn định kinh tế vùng cao, biên giới... Thực hiện các dự án
hợp tác quốc tế như ODA, UNDP, ADB, Care, AAV, GTZ, UNICEF, WB... có hiệu quả.
Giai đoạn 2000 - 2015
Nhiệm vụ: Tiếp tục thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng, đặc biệt là thời kỳ hội nhập khu vực và thế giới, ngành
đã xác định phương hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong
những năm đầu của thế kỷ 21.
Kết quả: Kinh tế nông nghiệp,
nông thôn phát triển theo quan điểm sản xuất hàng hoá gắn với công nghiệp chế
biến, khai thác tốt tiềm năng lợi thế của tỉnh. Cơ cấu giá trị sản xuất nông
lâm nghiệp và thủy sản trong tổng
giá trị sản xuất trên địa bàn năm 2001 chiếm 56,78%,
đến năm 2015 giảm xuống 31,1%. Hình thành được các vùng trồng cây công nghiệp
tập trung, phát triển theo hướng mờ rộng quy mô diện tích hợp lý ở những vùng
có điều kiện, tập trung cho đầu tư thâm canh tăng năng suất, phát triển các
vùng nguyên liệu có giá trị kinh tế cao, gắn với công nghiệp chế biến và xuất
khẩu; Phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, chú trọng cải tạo
giống và chuyển giao kỹ thuật, mở rộng mô hình doanh nghiệp liên kết với các hộ
gia đình để phát triển chăn nuôi, gắn với mở chợ buôn bán trao đổi đại gia súc;
Tập trung khôi phục, bảo vệ và phát triển vốn rừng, nhất là hệ thống rừng phòng
hộ đầu nguồn và các khu bảo tồn thiên nhiên. Tỷ lệ che phủ rừng tăng từ 34,2%
năm 2001 lên 45,7% năm 2015; Bước đầu khai thác tốt diện tích nước mặt vùng hồ
Sông Đà của thủy điện Sơn La, thủy điện Hòa Bình để phát triển nuôi cá lồng, cá
bè. Bộ mặt nông nghiệp, nông thôn có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất và tinh
thần từng bước được cải thiện; an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn
xã hội được đảm bảo; hệ thống chính trị từ bản, xã được quan tâm và đạt nhiều kết quả
tích cực. Lực lượng lao động nông nghiệp dồi dào, nông dân trên địa bàn tỉnh
khá nhạy bén nắm bắt các cơ hội thị trường. Thương mại hóa chuyển giao công
nghệ và sự phát triển của khu vực tư nhân ngày càng tích cực tham gia cung cấp
dịch vụ nông nghiệp và thương mại nông sản. Nhiều cơ chế chính sách mới được
ban hành; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ
tầng nông nghiệp nông thôn. Điều kiện cơ sở hạ tầng nông thôn được cải thiện
đáng kể, đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt. Đến hểt năm 2015, toàn tỉnh có
01 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 01 xã đạt 15 tiêu chí, 9 xã đạt 10 - 14 tiêu
chí, 78 xã đạt từ 5 - 9 tiêu chí, 99 xã đạt từ dưới 5 tiêu chí về nông thôn
mới.
60 năm xây dựng và trường
thành, có thể khẳng định Ngành Nông nghiệp và PTNT Sơn La đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được Đảng, Bác Hồ và nhân dân tỉnh Sơn La giao cho./.